Soạn Văn Bài 8: Tam Đại Con Gà-Nhưng Nó Phải Bằng Hai Mày

0
510

Soạn văn bài 8: Tam đại con gà-Nhưng nó phải bằng hai mày ngữ văn 10. Các bạn xem để cũng cố thêm kiến thức và ôn tập một cách hiệu quả.

BÀI 8

Tam đại con gà​​ 

Nhưng nó phải bằng hai mày​​ 

Viết bài làm văn số 2: Văn tự sự

TAM ĐẠI CON GÀ

(Truyện cười)

​​ Tiểu dẫn

Truyện cười có hai đặc trưng cơ bản:

- Về nội dung, chỉ tập trung thể hiện những sự việc và những hành vi của con người có chứa đựng mâu thuẫn trái tự nhiên để gây cười nhằm mục đích giải trí hoặc phê phán cái xấu, cái lỗi thời trong xã hội.

- Hình thức nghệ thuật ngắn gọn, có kết cấu chặt chẽ, mâu thuẫn phát triển nhanh, kết thúc bất ngờ tạo ra tiếng cười cho người nghe, người đọc.

Có hai loại truyện cười: truyện khôi hài để giải trí và truyện trào phúng mang ý nghĩa phê phán. Hai truyện cười được chọn học đều thuộc truyện trào phúng.​​ 

Tam đại con gà​​ 

I. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Tìm hiểu mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “ông thấy”

Đây là “ông thầy” dởm “dốt hay nói chữ”, bị đưa vào nhiều tình huống khó xử, đã “tự bộc lộ” cái dốt của mình bằng những mâu thuẫn trái tự nhiên:

- Chữ​​ “ke” là gà //​​ “Dủ dỉ là con dù dì”.​​ 

- Dạy học phải đọc to //​​ Bảo học trò đọc khe khẽ

- Muốn biết chữ đúng không // Khấn thổ công xin ba đài âm dương​​ 

- Chủ nhà phát hiện dạy sai //​​ Gỡ bí một cách liều lĩnh​​ 

- Tam đại con gà? //​​ Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà (!?)

Như “gà mắc tóc”, ông thầy dởm liên tiếp bị đưa vào nhiều tình huống thử thách trớ trêu, đã tự bộc lộ cái dốt của mình bằng những mâu thuẫn trái tự nhiên để gây cười. (Những điều ghi bên phải là những điều ông thầy dởm đã làm một cách trái tự nhiên không thể có trong công việc dạy học của một ông thầy đích thực).

Nếu để ý sẽ thấy câu chuyện có hai lần thắt nút để cuối cùng tiếng cười “òa” ra một cách sảng khoái khi cái dốt của ông thầy dởm được bộc lộ hoàn toàn. Lần thứ nhất, nút thắt lại khi ông thấy không biết chữ “kế” là gà, bắt học trò phải đọc khẽ. Cái nút này được gỡ bằng việc thầy khấn thổ công xin ba đài được cả ba. Thế là thầy cho học trò gào to lên. Nhưng chính vì gào to lên mà chủ nhà nghe thấy, dẫn đến cái nút thứ hai. Lần này chủ nhà đã phát hiện ra thầy dạy sai, và cái dốt của thầy được bộc lộ rõ, không thể chối cãi. Nhưng thắt nút thì phải cởi nút để tiếng cười bật ra. Dân gian đã cởi nút thật tài tình: để cho ông thầy gỡ bí, thanh minh về cái dốt của mình, nhưng càng thanh minh thì cái dốt lại càng lòi ra, càng được tô đậm thêm, càng đáng cười một cách thảm hại. Bởi vì trên đời này làm gì có con dủ dỉ (chỉ có một loài chim ăn thịt tên là dù dì), và con dủ dỉ cũng như con công thì không bao giờ có quan hệ họ hàng với con gà cả. Cái cách nói liều lấy được ở đây đã vạch trần thực chất dốt nát đáng cười của ông thầy dởm trong truyện này (và câu nói càng vần vè, càng lạ tại thì lại càng đáng cười vì chính nó là điều trái tự nhiên, không thể có trong cuộc sống).​​ 

2. Ý nghĩa phê phán của truyện

Truyện phê phán một đối tượng cụ thể là “ông thầy”. Nhưng từ một đối tượng cụ thể đó, truyện muốn nâng lên một ý nghĩa khái quát cao hơn: không chỉ phê phán một con người (ở đây là ông thầy dởm “dốt hay nói chữ”) mà là phê phán một loại người, một thói xấu trong xã hội: đó là sự giấu dốt mà con người ta cũng thường mắc phải. Đây mới chính là mục đích hướng tới, chủ đề của truyện cười đặc sắc này.​​ 

II. LUYỆN TẬP

Các em xem lại phần Hướng dẫn học bài trên đây để làm bài tập này (chú ý đi sâu tìm hiểu về thủ pháp gây cười).

NHƯNG NÓ PHẢI BẰNG HAI MÀY

(Truyện cười)

​​ I. HƯỚNG DẪN HỌC​​ 

BÀI 1. Phân tích tính kịch trong đoạn truyện “Cải vội xòe năm ngón tay... đến hết”.

Tính kịch ở đoạn truyện này thể hiện ở mâu thuẫn xuất hiện giữa hai nhân vật Cải và thầy lí được bộc lộ bằng những hành động và lời nói có nhiều ẩn ý mà chỉ hai người trong cuộc mới hiểu được nhau. (Cải ở đây là người hối lộ, còn thấy lí là người ăn hối lộ).

Trước đó, Cải đã lót trước cho thầy lí năm đồng, nhưng Ngô lại biện chè lá những mười đồng (điều này chắc Cải không biết nên mới xuất hiện màn kịch). - Mâu thuẫn xuất hiện ở chỗ Cải chắc chắn phần thắng sẽ về mình, nhưng khi nghe thầy lí tuyên bố bị “phạt một chục roi”, ngỡ thầy quên, nên vội nhắc lại cho thấy nhớ. Anh ta nhắc lại một cách thật khôn khéo, đầy ẩn ý, bằng cả hành động “vội xòe năm ngón tay” (ý nói mình đã lót trước cho thầy năm đồng), cả cái “ngẩng mặt nhìn thây” thật ý tứ, và nhất là lời “khẽ bẩm”, nhưng lại nhấn mạnh cái ý quan trọng: “lẽ phải về con mà!” (ý nói: con đã lót thấy rồi thì chắc chắn lẽ phải thuộc về con). Từ hành động đến lời nói đều gây cười, đều đáng cười vì nó lột trần chân tướng của một con người hối lộ để được xử thắng trong vụ kiện.

Tưởng nhắc khéo và rõ đến thế thì thầy lí phải nhớ, phải xử cho mình được kiện, ai ngờ thầy lí lại là người “cao thủ” hơn, khôn ngoan hơn. Cái nút đã thắt, thì phải cởi, nhưng thật bất ngờ, nó không cởi theo yêu cầu của Cải, theo hướng có lợi cho Cải, mà ngược lại. Ngược lại bằng cách lặp lại hai chi tiết nói trên: hành động và lời nói của Cải. Nếu Cải “xòe năm ngón tay” thì ở đây thầy lí “cũng xòe năm ngón tay” nhưng là “năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt” (ý nói là Ngô đã biện cho thấy những mười đồng). Nếu Cải nói “lẽ phải về con mà!” thì thầy lí cũng không phủ nhận, cũng lặp lại như thế “Tao biết mày phải...”, nhưng lại thêm vào “cái phải” quan trọng hơn, quyết định hơn: “nhưng nó lại phải ... bằng hai mày!” Nó ở đây là Ngô đã biện cho thầy những mười đồng nên nó mới phải bằng hai mày. Dưới con mắt​​ của kẻ ăn hối lộ, thì phải, trái được đo bằng số tiền đút lót nhiều hay ít (!?) Chi tiết này đã lột trần bản chất ăn tiền, tham nhũng một cách xấu xa, bỉ ổi, đáng lên án của thầy lí (ăn tiền cùng một lúc cả hai người đi kiện, đã ăn tiền Cải lại còn xử phạt Cải,...).​​ 

2. Phân tích nghệ thuật gây cười trong lời nói của thầy lí ở cuối truyện.

Như đã phân tích trong câu 1. trên đây, có thể thấy đây là chi tiết đặc sắc nhất để tiếng cười bật ra sảng khoái khi bản chất nhân vật thầy lí được bộc lộ hoàn toàn trong câu nói. Nghệ thuật gây cười được thể hiện ở những mặt sau đây:

- Sự phối hợp khéo léo giữa hành động đầy ẩn ý và lời nói tinh quái, ráo hoảnh của nhân vật.

- Lối chơi chữ độc đáo: “Tao biết mày phải... nhưng nó lại phải bằng hai mày!”

- Cách kết thúc truyện bất ngờ khiến cho tiếng cười “òa” ra trước bộ mặt đáng cười của thầy lí.​​ 

3. Đánh giá hai nhân vật Ngô và Cải​​ 

Đây là hai người nông dân trong xã hội phong kiến xưa. Vì muốn được kiện, nên cả hai đều tìm cách đút lót thầy lí. Ngô biện nhiều hơn (mười đồng) nên được kiện. Cải lót trước cho thầy lí, nhưng chỉ lót có năm đồng nên bị “phạt một chục roi”. Thật đáng cười, vì cả hai đều mất tiền, và người được “ăn không” ở đây chính là thầy lí. Tính chất bi hài của màn kịch này là ở chỗ: đã đút lót tiền rồi, ngỡ được kiện, cuối cùng lại bị phạt (thể hiện ở nhân vật Cải). Người lao động trong truyện cười này, do còn giữ thói xấu là hối lộ (để được việc cho mình) nên đã lâm vào tình trạng vừa bị vừa hài, vừa đáng thương vừa đáng trách. Bên cạnh việc phê phán giai cấp thống trị tham nhũng (thầy lí), truyện còn có tác dụng giáo dục trong nội bộ nhân dân một cách sâu sắc, thấm thía.

II. LUYỆN TẬP

Để làm bài tập này, các em cần tiến hành theo hai bước:

- Nêu lên hai đặc trưng cơ bản của truyện cười (theo phần Tiểu dẫn trên đây).

- Xem các đặc trưng đó đã được thể hiện trong từng truyện cười như thế nào?

VIẾT BÀI LÀM VĂN SỐ 2: VĂN TỰ SỰ​​ 

Đây là bài viết số 2, thuộc kiểu bài tự sự. Yêu cầu của bài làm là viết được một bài văn tự sự có hư cấu và sáng tạo đơn giản. Các em cần vận dụng kiến thức và kĩ năng đã học về kiểu bài tự sự để hoàn thành tốt bài viết này, cụ thể là ôn lại hai bài đã học:

- Tóm tắt văn bản tự sự. - Chọn sự việc, chi tiết tiêu biểu trong văn bản tự sự.

Sách giáo khoa đã có phần Hướng dẫn chung, Gợi ý đề bài và Gợi ý cách làm bài rất cụ thể. Các em cần theo đó để chuẩn bị thật tốt cho bài làm của mình.

Bài trướcSoạn Văn Bài 7: Tấm Cám Ngữ Văn 10
Bài tiếp theoSoạn Văn Bài 9: Ca Dao Than Thân-Yêu Thương Tình Nghĩa

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây