Soạn Văn Bài 10 Ca Dao Hài Hước-Luyện Tập Viết Đoạn Văn Tự Sự

0
521

Soạn Văn Bài 10 Ca Dao Hài Hước-Đọc thêm: Lời tiễn dặn-Luyện Tập Viết Đoạn Văn Tự Sự Ngữ Văn 10. Các bạn xem để soạn bài và cũng cố kiến thức hiệu quả.

BÀI 10 . Ca dao hài hước . Đọc thêm: Lời tiễn dặn . Luyện tập viết đoạn văn tự sự

CA DAO HÀI HƯỚC​​ 

I. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Tìm hiểu tiếng cười tự trào (tự cười mình) trong bài 1

Bài ca là lời đối đáp vui đùa của nam nữ ở chặng hát cưới trong dân ca. Mặc dầu vậy, nó vẫn đem đến cho ta một tiếng cười mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

Bài ca gồm lời của chàng trai và của cô gái đối đáp nhau: chàng trai nói về việc dẫn cưới của mình, còn cô gái, về việc thách cưới. Thử xem việc dẫn cưới và thách cưới ở đây có gì khác thường, cách nói của chàng trai và cô gái có gì đặc biệt?

Cần nhớ rằng họ đều là những người lao động trong cảnh nghèo và việc cưới là điều hệ trọng nhất trong cuộc đời của họ, nhất là đối với người con gái. Nghèo là vậy, nhưng vì coi trọng lễ cưới, yêu quý người bạn trăm năm, nên chàng trai đã có những dự định sang trọng trong việc dẫn cưới:

Cưới nàng, anh toan dẫn voi,​​ 

Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.

Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,

Dẫn bò, sợ họ nhà nàng có gân.​​ 

Dự định thật to tát (chàng trai nào khi yêu mà chả thế!), nhưng chỉ là dự định vì làm sao một chàng trai nghèo lại có được những vật dẫn cưới đắt tiền như thế! Cái hóm hỉnh, đáng yêu là ở cách nói ý nhị của chàng: dẫn coi/sợ quốc cấm; dẫn trâu/ sợ họ máu hàn; dẫn bò/ sợ họ có gân. Không phải không muốn dẫn những vật ấy mà cái chính là lo cho họ nhà gái. Chàng rể thật chu đáo vì biết cách ứng xử! Để rồi cuối cùng chàng trai mới nói ra cái vật dẫn cưới thật của mình:​​ 

Miễn là có thú bốn chân,​​ 

Dẫn con chuột béo, mời dân mời làng.​​ 

Nghèo quá nên chỉ có thể dẫn cưới bằng con chuột. Cách nói thật thú vị, pha chút tinh nghịch (đây là lời đối đáp vui đùa của nam nữ): chuột cũng là thú bốn chân như voi, trâu bò; lại là chuột béo; và chỉ cần​​ một con chuột béo ấy là có thể mời dân, mời làng. Nhưng đây cũng là vật dẫn cưới hư cấu do chàng trai tưởng tượng ra, vì có ai lại dẫn cưới bằng chuột bao giờ?! Chi tiết này thật đắt, thật đáng yêu trong lời dẫn cưới của chàng trai​​ nghèo, và tiếng cười tự trào cũng bật lên hồn nhiên, vô tư khi người lao động không mặc cảm với cảnh nghèo, mà trái lại, như còn bằng lòng, vui thú với cảnh nghèo của mình.

Một lời dẫn cưới đáng yêu như thế, làm sao cô gái không chấp nhận? Hãy nghe cô trả lời người yêu cùng với lời thách cưới của mình:

Chàng dẫn thế, em lấy làm sang.​​ 

Nỡ nào em lại phá ngang như là .....

Người ta thách lợn thách gà,​​ 

Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.

Ở đây có hai nét đẹp trong tâm hồn cô gái: trong lời chấp nhận việc dẫn cưới của chàng trai và trong lời thách cưới của mình. Không chỉ chấp nhận, cô còn lấy làm sang cho dù vật dẫn cưới chỉ là một con chuột béo! Cùng cảnh nghèo như nhau, cô dễ dàng thông cảm và sẵn sàng chấp nhận. Nhưng còn cao đẹp hơn là lời thách cưới của cô:​​ Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.​​ Trên đời này, chắc hẳn không thể có một cô gái nào lại thách cưới như vậy, cho dù cùng trong cảnh nghèo. Bởi vì việc cưới là điều hệ trọng nhất trong cuộc đời người con gái, nó quyết định cả cuộc đời cô, vậy mà cô chỉ thách có một nhà khoai lang. Nhưng như vậy là đủ lắm rồi, vì nhà em nghèo mà nhà anh cũng nghèo, làm sao có thể thách khác được? Trong sự đối lập giữa​​ thách lợn, thách gà với thách cưới một nhà khoai lang​​ càng thấy rõ nét cao đẹp của người con gái: không chỉ là lời thách cưới vô tư, thanh thản mà còn là một tâm hồn lạc quan yêu đời, một triết lí trong cuộc sống của người lao động - không mặc cảm mà còn tìm thấy niềm vui trong cảnh nghèo và nhất là luôn giữ được cuộc sống thanh cao của mình. Lời thách cưới thật đáng yêu, đáng trân trọng, cho dù nó chỉ là lời đùa cợt trong chặng hát cưới của dân ca. Và cái dí dỏm, đáng yêu còn được cô nói tiếp trong dự định của mình về những vật thách cưới đó:​​ Củ to thì để mời làng... Để cho con lợn con gà nó ăn...

Đây là tiếng cười tự trào của người bình dân trong ca dao. Người lao động tự cười mình trong cảnh nghèo. Lại chọn đúng cái cảnh cưới là lúc bộc lộ rõ nhất cái nghèo để cười, để yêu đời, ham sống. Khi người ta tự cười mình thì tiếng cười ấy bộc lộ rõ nhất nhân cách của họ như ta đã thấy trong tâm hồn cao đẹp của chàng trai và cô gái trong lời dẫn cưới và thách cưới khác thường nhưng thật đáng yêu của họ.​​ 

2. Tìm hiểu tiếng cười châm biếm, phê phán xã hội trong bài 2, 3, 4.

Khác với tiếng cười tự trào ở bài 1, tiếng cười trong bài 2, 3 ,4 là tiếng cười châm biếm, phê phán xã hội. Đây không phải là tiếng cười đả kích, lên án giai cấp thống trị mà là tiếng cười giáo dục trong nội bộ nhân dân nhằm phê phán những thói hư tật xấu mà con người vẫn còn mắc phải. Ở đây, tác giả dân gian cười những chàng trai chưa đáng bậc​​ nam nhi và những cô gái vô duyên đỏng đảnh... để nhắc ta phải làm người cho xứng đáng, với thái độ nhẹ nhàng, thân tình, mang tính giáo dục nhưng không vì thế mà kém phần sâu sắc.

Bài 2​​ chế giễu loại đàn ông yếu đuối, không đáng sức trai, không đáng nên trai. Bài 3 châm biếm loại đàn ông lười nhác, không có chí lớn. Hai bài ca dao là hai bức tranh cụ thể, sinh động lại mang tính khái quát cao, điển hình cho hai loại đàn ông đáng phê phán. Nếu ở bài 2, tiếng cười bật ra nhờ nghệ thuật phóng đại kết hợp với thủ pháp đối lập (Khom lưng chống gối/gánh hai hạt vừng); thì ở​​ bài 3, vẫn sử dụng thủ pháp đối lập giữa chồng người và chồng em, tác giả dân gian lại tóm đúng thần thái nhân vật trong một chi tiết thật đắt: ngồi bếp sờ đuôi con mèo! Hình ảnh loại đàn ông lười nhác, ăn bám vợ hiện lên vừa buồn cười vừa thảm hại, mang tính hài hước và ý nghĩa giáo dục sâu sắc.

Bài 4​​ chế giễu loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên. Đây là một bức tranh hư cấu hài hước tài tình của dân gian, có những chi tiết có thể có trong đời thường (đêm nằm thì ngay 0 0; đi chợ thì hay ăn quà), có những chi tiết không thể có (lỗ mũi mười tám gánh lông; trên đầu những rác cùng rơm), nhưng tất cả đều được phóng đại bằng trí tưởng tượng phong phú của người bình dân. Bài ca dao hài hước này trước hết là để mua vui, giải trí, nhưng đằng sau những tiếng cười sảng khoái đó vẫn ngầm chứa một ý nghĩa châm biếm nhẹ nhàng đối với loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên không phải không có trong xã hội (ngày 0 0, hay ăn quà...). Có thể do trời "phá" cho họ điều đó, cũng có​​ thể do họ chưa tự điều chỉnh được mình trong cuộc sống chung. Tác giả dân gian đã nhìn họ bằng con mắt nhân hậu, thông cảm, qua con​​ mắt của người chồng yêu vợ nên tất cả điều xấu của nhân vật đều hóa thành tốt (lông mũi/râu rồng trời cho ngày 0 0/cho vui nhà; ăn quà/đỡ cơm; rác rơm / hoa thơm).​​ 

3. Những biện pháp nghệ thuật ca dao hài hước thường sử dụng

- Hư cấu dựng cảnh tài tình, khắc họa nhân vật bằng những nét điển hình có giá trị khái quát cao.

- Cường điệu phóng đại, tương phản đối lập.​​ 

- Hình ảnh hài hước, chi tiết hàm chứa ý nghĩa.

- Cách nói hóm hỉnh, ý nhị.​​ 

II. LUYỆN TẬP

Bài tập 1:​​ Cần nêu cảm nghĩ thật của mình về lời thách cưới của cô gái.​​ 

Gợi ý:​​ Tiếng cười tự trào của người lao động đáng yêu, đáng trân trọng:

- Không mặc cảm mà còn bằng lòng với cảnh nghèo, vui và thích thú trong lời thách cưới (dù chỉ là lời đùa cợt trong lối đối đáp nam nữ của dân ca).

- Lời thách cưới thật khác thường chỉ là khoai lang) mà vô tư, hồn nhiên, thanh thản nói lên tâm hồn lạc quan yêu đời của người lao động.

Bài tập 2:​​ Tìm các bài ca dao hài hước trong cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, in lần thứ 7, NXB Khoa học xã hội, 1971 và cuốn Ca dao hài hước của Đào Thản, NXB Văn hóa - Thông tin, 2001.

Đọc thêm : LỜI TIỄN DẶN

(Trích​​ Tiễn dặn người yêu​​ -​​ truyện thơ dân tộc Thái)​​ 

Đây là bài đọc thêm về truyện thơ. Các em cần tiến hành theo ba bước sau đây:

1. Đọc kĩ tiểu dẫn để nắm được cốt truyện và các sự việc chính.​​ 

2. Đọc chậm đoạn trích Lời tiễn dặn để nắm được tâm trạng, cảm xúc của nhân vật Anh, đồng thời thấy được hình ảnh Chị hiện lên gián tiếp qua lời của Anh (xem kĩ chú thích). | 3. Trả lời bốn câu hỏi trong phần Hướng dẫn đọc thêm.

LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ​​ 

I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ

Nắm được đoạn văn và cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự.​​ 

1. Đoạn văn trong văn bản tự sự

(1) Đoạn văn là bộ phận của văn bản gồm câu chủ đề nêu ý khái quát và các câu khác triển khai ý khái quát đó.

(2) Đoạn văn có nhiều loại với những nhiệm vụ khác nhau: đoạn mở bài, các đoạn ở thân bài, đoạn kết bài.

(3) Nội dung mỗi đoạn văn có thể khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm thể hiện chủ đề và ý nghĩa văn bản.​​ 

2. Cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự

(1) Tìm hiểu đoạn mở đầu và đoạn kết thúc truyện ngắn​​ Rừng xà nu​​ của Nguyễn Trung Thành, ta thấy:

a) Đoạn mở đầu và đoạn kết thúc đã thể hiện đúng như dự kiến của tác giả:

- Mở đầu: tả khu rừng xà nu một cách hết sức tạo hình.

- Kết thúc: bằng một cảnh rừng xà nu, như một vị thanh cứ xa mờ dần và bất tận.

- Cả hai đoạn đều tả bằng bút pháp vừa tả thực vừa tượng trưng, vừa hiện thực vừa lãng mạn.

- Đoạn mở đầu tả kĩ hơn, dài hơn cốt gây ấn tượng; đoạn kết tả cô động để lưu giữ lại ấn tượng trong lòng người đọc, gợi chất thơ hùng tráng cho tác phẩm (trong đoạn kết có hình ảnh con người xuất hiện cùng với rừng xà nu).

b) Trên cơ sở phân tích ở điểm a, các em tự rút ra kinh nghiệm về cách viết đoạn văn.

(2) Đọc đoạn văn của một bạn học sinh viết về “hậu thân của chị Dậu”, ta thấy:

a) Đó là một đoạn văn trong văn bản tự sự viết về câu chuyện (1) của chị (xem bài Lập dàn ý bài văn tự sự, tr.51) vì nó triển khai một ý lớn của câu chuyện: chị Dậu về lại làng cũ của mình. Đoạn văn thuộc phần đầu của thân bài, sau lời giới thiệu: “Sau cái đêm ấy, chị Dậu gặp một cán bộ cách mạng và được giác ngộ...”

b) Viết đoạn văn này, bạn học sinh đã thành công ở cách kể rõ ràng theo trình tự thời gian và hoạt động của nhân vật, có một số hình ảnh miêu tả chi tiết biểu cảm khá đạt (nếu dẫn chứng trong đoạn văn). Tuy nhiên, có hai chỗ bạn còn phân vân và để trống, đoạn

miêu tả chân trời phía đông ửng hồng lên (nhưng không miêu tả tiếp) và đoạn kể chị Dậu bỗng ứa nước mắt (cũng dừng lại, không miêu tả tiếp chi tiết biểu cảm này). Các em dựa vào mạch văn và ý tưởng của bạn, viết tiếp vào những chỗ để trống về miêu tả và biểu cảm đó.

(3) Rút ra cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự (xem Ghi nhớ ở cuối bài).​​ 

II. LUYỆN TẬP

1. Gợi ý :​​ Các em tìm đọc đoạn văn này trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê trong Ngữ văn 9, tập hai để trả lời câu hỏi này. (Chú ý : Truyện kể theo ngôi thứ nhất, nhân vật kể chuyện xưng “tôi”).

2. Đọc 9 câu thơ đầu trong đoạn trích, hình dung ra nhân vật để viết. (Chú ý: nhân vật cô gái hiện lên gián tiếp qua lời kể của nhân vật chàng trai).

Bài trướcSoạn Văn Bài 9: Ca Dao Than Thân-Yêu Thương Tình Nghĩa
Bài tiếp theoSoạn Văn 10 Bài 11: Ôn Tập Văn Học Dân Gian Việt Nam

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây