Soạn Văn 10 Bài 14 Nhàn-Đọc Tiểu Thanh Kí -Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt

0
761

Soạn Văn 10 Bài 14 Nhàn-Đọc Tiểu Thanh Kí -Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Các bạn xem để soạn bài và cũng cố kiến thức một cách hiệu quả.

BÀI 14

Nhàn . Đọc Tiểu Thanh Kí​​ 

Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (tiếp theo)

NHÀN

NGUYỄN BỈNH KHIÊM​​ 

I. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Trước hết, cần đọc bài thơ vài lần để có cảm nhận chung về tác phẩm. Đọc với giọng nhẹ nhàng, thong thả, thoải mái. Chú ý ngắt nhịp đúng (nhịp 4/3), riêng câu đầu ngắt nhịp 2/2/3 (Một mai/một cuốc/một cần câu), câu 3,4 ngắt nhịp 2/5.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ​​ 

Người khôn / người đến chốn lao xao.

​​ Sau đó đọc kĩ Tiểu dẫn và Chú thích để nắm được tác giả, xuất xứ tác phẩm và hiểu đúng, hiểu sâu hơn bài thơ (đặc biệt chú thích (3) về​​ điển Thuần Vu​​ Phần​​ ​​ ​​ hai câu thơ cuối).

Dưới đây là gợi ý trả lời các câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài:​​ 

1. Hai câu đầu

Một mai/một cuốc/​​ một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai / vui thú nào.​​ 

Câu 1 ngắt nhịp 2/2/3 cùng với cách dùng dùng số từ + danh từ liên tiếp (một ..., một ..., một ...) như kể ra rành rọt những dụng cụ cho một cuộc sống đã sẵn sàng: mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá. Câu thơ đưa ta về với cuộc sống nguyên sơ, thuần hậu, tự cung tự cấp của cái thời "tạc tỉnh canh điền" (nước đào giếng, cơm cày ruộng). Cụ Trạng Trình, một bậc đại khoa mà lại về với cuộc sống như vậy thì cũng là một sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà không ngang, mà cứ ung dung, thanh thản như không - nhịp điệu nhẹ nhàng, thong thả của câu 2 đã nói rõ điều đó:

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.​​ 

Hoàn cảnh cuộc sống là như vậy nhưng nhà thơ đã sẵn sàng chấp nhận và như còn vui, thích thú với cuộc sống đó (Dù ai có cách vui thú nào cũng mặc, ta cứ thơ thẩn giữa cuộc đời này).​​ 

2. Hai câu 3, 4

Ta dại/ ta tìm nơi vắng vẻ,​​ 

Người khôn/ người đến chốn lao xao.​​ 

Hai câu thơ vừa mang vẻ đẹp nhân cách, lại mang vẻ đẹp trí tuệ của một bậc hiền sĩ, thức giả. Nơi vắng vẻ đối lập với chốn lao xao, ta đối lập với người, dại đối lập với khôn. "Ta tìm nơi vắng vẻ" là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Nơi nắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. “Người đến chốn lao xao” là đến chốn cửa quyền, đến vòng danh lợi. Ta thấy rõ nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. Ông còn là một bậc thức giả với trí tuệ tỉnh táo, sáng suốt - trong sự lựa chọn nơi vắng vẻ để sống, và cả trong cách nói đùa vui, ngược nghĩa, thâm trầm mà sâu sắc: nói ta dại nhưng thực chất là khôn, nói người khôn mà chính là dại. Câu thơ mang ý vị triết lý sâu xa về cách sống của con người.​​ 

3. Hai câu 5,6

Thu ăn măng trúc / đông ăn giả,

Xuân tắm hồ sen / hạ tắm ao.​​ 

Hai câu thơ có âm điệu nhịp nhàng, hình ảnh đẹp, lại đối nhau rất chính và cân xứng, tạo nên bộ tranh tứ bình về cuộc sống đạm bạc mà thanh cao qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của nhà hiền sĩ. Ở đây, cuộc sống đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm đi với thanh. Thức ăn dân dã nhưng mùa nào thức ấy (Thu ăn măng trúc, đông ăn giá), cuộc sống giữa thiên nhiên mà thanh thản, thơ mộng (Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao). Một cuộc sống thanh đạm nhường ấy dễ mấy ai đã có được như nhà thơ!​​ 

4. Hai câu thơ cuối

Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.​​ 

Hai câu thơ cuối càng khẳng định mạnh mẽ nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông xem phú quý chỉ là giấc chiêm bao như giấc​​ mộng của Thuần Vu Phần xưa. Ở đây, với cái nhìn thông tuệ của bậc thức giả, ông tìm đến say chỉ là để tỉnh. Cuộc sống nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ. Trí tuệ nhận ra danh lợi chỉ là giấc chiêm bao, nâng cao nhân cách để nhà thơ từ bỏ chốn lao xao tìm về nơi vắng vẻ, đạm bạc mà thanh cao.​​ 

5. Lựa chọn cách hiểu đúng về quan niệm sống nhân của Nguyễn Bỉnh Khiêm

SGK đưa ra bốn quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hai quan niệm trên không đúng với nhà thơ. Với ông, quan niệm sống nhân là:

- Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao của nhà hiền sĩ. - Hòa hợp với tự nhiên, về với tự nhiên để di dưỡng tinh thần.

Đó là quan niệm sống nhân tích cực của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến có những biểu hiện suy vị về đạo đức lúc bấy giờ, một quan niệm sống nhàn như vậy thật đáng trân trọng. Đó là chưa kể ông nhàn thân mà không nhàn tâm, nhàn mà vẫn canh cánh một niềm ưu ái với nước, với dân như trong phần Tiểu dẫn đã nói rõ. 6. Nêu cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

Các em có thể tổng hợp các phần phân tích trên đây để nêu cảm nhận của mình về nhà thơ.

Gợi ý:​​ 

- Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao.

​​ - Nhân cách cao cả, vượt lên trên danh lợi.​​ 

- Trí tuệ tỉnh táo, sáng suốt, sâu sắc.

Đó là cuộc sống, nhân cách, trí tuệ cao đẹp của một bậc hiền sĩ, thức giả, của một nhà thơ lớn mang cốt cách một nhà hiền triết phương Đông.​​ 

II. LUYỆN TẬP .​​ 

Dựa vào các phần phân tích 6 câu hỏi trên đây, các em tổng hợp lại để rút ra hai điểm:

- Vẻ đẹp cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ.

- Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ (qua quan niệm sống nhàn).

ĐỌC TIỂU THANH KÍ

​​ (Độc Tiểu Thanh kí)

NGUYỄN DU​​ 

I. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Để hiểu đúng nội dung sâu xa của nguyên tác được tạo nên từ một cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Du, các em cần đọc kĩ phần Tiểu dẫn để nắm được nhân vật trong bài thơ, đọc kĩ phần Dịch nghĩa để hiểu đúng nội dung từng câu chữ; sau đó so sánh phần Dịch nghĩa với phần Dịch thơ (bản dịch của Vũ Tam Tập) để xem bản dịch thơ đã sát​​ đúng với nguyên tác chưa, có gì cần bổ sung không, cuối cùng xem kĩ phần Chú thích để hiểu rõ và hiểu sâu hơn bài thơ. Đọc thêm hai bản dịch thơ của Quách Tấn và của Vũ Hoàng Chương để tham khảo.

Để có thể trả lời 4 câu hỏi trong SGK (trong đó có những câu ở dạng khái quát cần phải suy nghĩ), các em cần phải đọc bản dịch thơ nhiều lần và liên tưởng đến số phận nàng Tiểu Thanh (nhân vật trong bài thơ) và tác giả Nguyễn Du để có những cảm nhận về tác phẩm.

Dưới đây là những gợi ý về hướng trả lời 4 câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài:​​ 

1. Chỉ ra lý do khiến Nguyễn Du đồng cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh.

Có thể có hai lí do sau đây:

- Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, có “trái tim lớn” (Hoài Thanh), có lòng thương người sâu sắc. Ông thương những người khổ cực, những số phận bất hạnh bị chà đạp trong xã hội cũ. Trong những con người đó, Nguyễn Du đặc biệt thương xót những người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, và nỗi thương xót đó đã thành một cảm hứng lớn trong sáng tác của ông (“Đau đớn thay phận đàn bà - Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” -​​ Truyện Kiều). Đó là lí do chung khiến ông đồng cảm với nhiều số phận bất hạnh của những người phụ nữ tài sắc trong sáng tác của mình.

Bên cạnh lí do chung, còn có lí do riêng đối với trường hợp cụ thể của nàng Tiểu Thanh. Thường thì những người “cùng hội cùng thuyền” bao giờ cũng dễ đồng cảm với nhau ở mức da diết, sâu sắc. Nguyễn Du và Tiểu Thanh chính là những người như vậy:

+ Nguyễn Du là người tài hoa, giỏi văn thơ nhưng cuộc đời lận đận, không may mắn. Ông đã trải qua những ngày khổ cực, cơm không có mà ăn, thuốc không có khi ốm đau, mới ba mươi tuổi mà tóc đã bạc trắng vì suy nghĩ, làm quan với triều Nguyễn một cách bất đắc dĩ, có thể nói cuộc đời ông cũng đầy bất hạnh, đầy sóng gió.​​ 

​​ + Nàng Tiểu Thanh cũng vậy, cũng là người phụ nữ tài sắc, giỏi văn chương, âm nhạc, nhưng số phận cũng bất hạnh, chết sớm vì đau buồn ở tuổi 18; chết rồi mà thơ vẫn bị đốt.

Đây là lí do chủ yếu, quan trọng nhất khiến Nguyễn Du đồng cảm với số phận của nàng Tiểu Thanh. Câu thơ “Phong cận kì oan ngã tự cư đã nói rõ điều đó: Nguyễn Du đồng cảm với thân phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh vì ông cũng có thân phận tương tự (“Ta tự thấy là người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã”; dịch thơ: Cái án phong lưu khách tự mang. Đó là sự đồng cảm tự nhiên mà sâu sắc của những người “cùng hội cùng thuyền.

2. Ý nghĩa của câu “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi.”

​​ Nguyên văn câu thơ chữ Hán là “Cổ kim hận sự thiên nan vấn”. Hận sự mà dịch là nỗi hờn e có quá nhẹ không? Bởi đây không chỉ là nỗi hờn thông thường của con người trong cuộc sống mà là nỗi hận của cả một kiếp người trong thế gian. Đúng hơn là một sự hận (hận sự), một sự uất ức khổ đau của con người đến thành hận “Hận sự” khái​​ quát hơn "nỗi hận”, nó là hiện tượng - hận, vấn đề - hận của con người trong xã hội , là nỗi đau của con người một thời đã đúc lại thành hận! Lại là cổ kim hận sự! Đó mới đúng là mối hận của nàng Tiểu Thanh qua con mắt nhìn và tấm lòng đồng cảm của Nguyễn Du: một người con gái tài sắc nhường ấy mà phải chết oan, chết yểu khi mới 18 tuổi! Đau xót quá, uất ức quá, oan ức quá! Nhưng nó lại do con người gây ra và đã thành sự thật trong cuộc đời, thành một sự hận của cả một kiếp người tài hoa bạc mệnh trong xã hội, thế thì làm sao có thể hỏi trời được? Đâu phải trời gây ra, làm sao đấng cao xanh ấy có thể trả lời được, cho dù đấy là đấng nhiệm màu nhất. Cũng có nghĩa là cái cổ kim hận sự ấy ghê gớm quá, đau xót quá, đến ông trời cũng không hiểu nổi. Trời khôn hỏi thì nỗi đau ấy chỉ còn biết tích tụ trong lòng người để thành một mối hận thế gian. Nó được dồn nén lại trong một câu thơ bảy chữ như một tiếng kêu thương uất ức và não nuột của Nguyễn Du vang vọng mãi đến muôn đời sau.

3. Suy nghĩ về chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du qua tấm lòng thương xót và đồng cảm với nàng Tiểu Thanh

Có thể thấy những nét chủ yếu của chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du qua bài thơ:

- Trân trọng những con người tài sắc (câu 3, 4).

- Đau xót, uất ức trước số phận con người tài sắc mà bất hạnh (câu 5).​​ 

- Đồng cảm sâu sắc với người cùng hội cùng thuyền” (câu 6).

Tất cả đã tạo thành một cảm hứng lớn trong sáng tác của nhà thơ: thương xót cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ tài sắc. Từ đó có thể thấy cái nét riêng (cũng là điểm sáng nhất ghi lại dấu ấn của nhà thơ thiên tài) trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du chính là:

- Quan tâm đến số phận của người phụ nữ là người khổ nhất, bị chà đạp nhiều nhất trong xã hội cũ, để thương xót, bênh vực họ, đòi quyền sống cho họ (Đau đớn thay, phận đàn bà...)

- Trong những người phụ nữ ấy, ông lại chú ý đến những người phụ nữ tài sắc mà số phận bất hạnh như Thúy Kiều, Tiểu Thanh, người ca nữ gảy đàn ở Long Thành,... để trân trọng, xót thương, đồng cảm. Và ông đã đem đến cho chủ nghĩa nhân đạo một cảm hứng riêng thật sâu sắc về người phụ nữ trong xã hội cũ: hồng nhan bạc mệnh;.. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.​​ 

4. Vai trò của mỗi đoạn thơ (khai thừa, chuyển hợp)​​ đối​​ chủ đề toàn bài.

Thơ Đường luật (thất ngôn bát cú hay tứ tuyệt) là một chỉnh thể nghệ thuật có kết cấu chặt chẽ gồm 4 đoạn thơ (4 phần) là khai, thừa, chuyển, hợp (còn gọi là đề, thực, luận, kết). Ở bài thất ngôn bát cú, mỗi đoạn gồm 2 câu thơ (một cặp câu thơ). Mỗi đoạn thơ giữ một vai trò trong kết cấu bài thơ, có mối liên hệ lôgíc bên trong để bộc lộ chủ đề của tác phẩm. ​​ Ở bài Đọc​​ Tiểu Thanh Kí, có thể thấy vai trò của từng đoạn thơ như sau:

- Khai (câu 1, 2): mở bài: nêu khung cảnh gợi cảm hứng và hoàn cảnh sáng tác bài thơ.

- Thừa (câu 3, 4): nói về nhân vật của bài thơ (nàng Tiểu Thanh khi đã chết nhưng tài sắc và văn chương thì vẫn còn đó).

- Chuyển (câu 5, 6): nghĩ về mối hận của nàng và tỏ lòng đồng cảm của người cùng một hội với nàng.

- Hợp (câu 7, 8): trông người mà nghĩ đến ta, không biết số phận rồi sẽ sao đây?

Bốn đoạn thơ đều nằm trong mạch cảm hứng chung của nhà thơ là xót thương và cảm thông với số phận của người con gái tài sắc mà bất hạnh, từ đó mà chạnh nghĩ đến số phận của mình trong cuộc đời. Sự nối tiếp và phát triển lôgíc của bốn đoạn thơ đã bộc lộ sâu sắc và thấm thía chủ đề của tác phẩm.​​ 

II. LUYỆN TẬP​​ 

Gợi ý:​​ 

- Các em tìm đọc Truyện Kiều ở một số câu trước câu 107 để xác định đoạn thơ viết về nhân vật nào, lời nói trên là của ai?

- Từ đó tìm ra điểm tương đồng với bài Đọc Tiểu Thanh kí. (Chú ý: Bốn câu thơ trong Truyện Kiều về mặt cảm hứng, giống với bốn câu 5, 6, 7, 8 trong bài Đọc Tiểu Thanh kí) và đề tài mà Nguyễn Du quan tâm trong các sáng tác của ông.

PHONG CÁCH NGÔN NGỮ SINH HOẠT

(Tiếp theo)

I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ

Nắm được các đặc trưng của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.

Ngôn ngữ sinh hoạt có một số đặc trưng cơ bản, rất tiêu biểu cho hành vi nói năng của con người trong cuộc sống. Các em xem lại đoạn hội thoại ở tiết học trước, nhận xét, trao đổi để rút ra những đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.

Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt có ba đặc trưng cơ bản sau đây:​​ 

1. Tính cụ thể

Dấu hiệu đặc trưng nhất của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt là tính cụ thể: cụ thể về hoàn cảnh, về con người và về những cách nói năng, từ ngữ diễn đạt.

- Hoàn cảnh cụ thể: buổi trưa, khu tập thể.​​ 

- Con người cụ thể: Lan, Hùng, Hương, mẹ Hương, ông hàng xóm.

- Những cách nói năng, diễn đạt cụ thể: mỗi người nói và diễn đạt đều cụ thể bằng những từ ngữ cụ thể không giống nhau.​​ 

2. Tính cảm xúc

Dấu hiệu đặc trưng thứ hai của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt là tính cảm xúc. Không có một lời nói nào nói ra lại không mang tính cảm xúc, kể cả những lúc bình thường nhất. Tính cảm xúc của ngôn ngữ sinh hoạt được biểu hiện qua giọng nói của con người trong giao tiếp với nhau:

- Giọng gọi Hương đi học của Lan, Hùng (thân mật, thúc giục). - Giọng khuyên bảo của mẹ Hương (thân mật, yêu thương).

- Giọng trách mắng của ông hàng xóm (nói to: Gì mà ầm lên thế chúng mày!...)

- Giọng thân mật trong sự trách móc (Gớm), trong so sánh (chậm như rùa,...)

3. Tính cá thể

Dấu hiệu đặc trưng thứ ba của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt là tính cá thể. Lời nói là vẻ mặt thứ hai, diện mạo thứ hai của con người để phân biệt người này với người khác, người quen hay kẻ lạ, thậm chí người tốt với người xấu. Qua âm thanh và giọng nói, ta biết được giới tính, tuổi tác, địa phương, cá tính, tâm trạng,... của người nói mà không cần nhìn thấy mặt. Có nghĩa là ta biết được nét riêng, tính cá thể của từng người qua ngôn

ngữ​​ sinh hoạt của họ.​​ ​​ đoạn hội thoại đã nêu, chỉ nghe lời nói ta có thể nhận ra nét riêng của từng người một cách dễ dàng.

Ba đặc trưng cơ bản trên đây là những dấu hiệu để ta phân biệt phong cách ngôn ngữ sinh hoạt với các phong cách ngôn ngữ khác, như phong cách ngôn ngữ khoa học, hành chính, nghệ thuật,​​ 

II. LUYỆN TẬP​​ 

1. Gợi ý:

a) Tính cụ thể của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt:

- Hành vi: viết nhật kí (nhật kí thể hiện rất rõ nét phong cách ngôn ngữ sinh hoạt).

- Từ ngữ: 8-3-69 ; ghi lại cụ thể sự việc đi thăm bệnh nhân về giữa đêm khuya (cảnh vật, âm thanh, và ý nghĩ của người viết).

b) Tính cảm xúc : ghi lại tiếng nói nội tâm của lòng mình : “Nghĩ gì đấy Th. ơi ? Nghĩ gì mà đôi mắt đăm đăm nhìn qua bóng đêm (.) Đáng trách quá Th. ơi ! Th. có nghe tiếng người thương binh khẽ rên và tiếng súng vẫn nổ nơi xa”. Người viết nhật kí tự hỏi mình bằng lời nói thường ngày, theo phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.​​ 

c) Tính cá thể: Qua ngôn ngữ của đoạn nhật kí, ta có thể nhận ra người viết: đó là một cô gái trí thức, có lí tưởng, có ước mơ, tâm hồn phong phú, tin tưởng vào chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mĩ. (“Qua ánh trăng mờ Thi thấy biết bao là viễn cảnh tươi đẹp, cả những cận cảnh êm đềm của những ngày sống giữa tình thương trên mảnh đất Đức Phổ này (...) Chiến trường vẫn đang mùa chiến thắng.”).

d) Ghi nhật kí rất có lợi cho sự phát triển ngôn ngữ của bản thân (tăng thêm từ vựng và cách diễn đạt ý nghĩ của mình). Nhiều nhà văn đã tự rèn luyện bằng cách ghi nhật kí.​​ 

2. Gợi ý:

a) Ca dao là dạng lời nói tái hiện trong tác phẩm nghệ thuật, tác giả dân gian bắt chước lời nói tự nhiên nhưng không hoàn toàn mà có biến cải. Dấu ấn của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt vẫn còn rất đậm: Mình, ta, về, nhớ, chăng, hàm răng mình cười (bài 1); Hỡi cô, lòa xòa, lại đây... với anh (bài 2).

b) Đưa lời nói hàng ngày vào thơ lục bát, lời nói được sáng tạo,​​ theo quy tắc nhịp điệu, vần điệu, hài thanh. (Các em tập chuyển như yêu cầu của bài tập).​​ 

3. Gợi ý:

Cũng là dạng lời nói tái hiện trong tác phẩm nghệ thuật, nhưng đây là sử thi anh hùng của Tây Nguyên. Ở đây cũng là ngôn ngữ sinh hoạt nhưng có sự lặp lại dư thừa theo nhịp điệu của anh hùng ca khiến cho lời thoại đẹp hơn, hùng tráng hơn, mang sắc thái và​​ không khí của núi rừng và vẻ đẹp kì vĩ của những con người Tây Nguyên. (Các em phân tích và chứng minh qua đoạn đối thoại trong Chiến thắng Mtao Mxây).

Bài trướcSoạn Văn 10 Bài 13 Tỏ lòng-Cảnh ngày hè-Tóm tắt văn bản tự sự
Bài tiếp theoSoạn Văn 10 Bài 15 Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng -Thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây